Vaccine là yếu tố chính trong phòng và kiểm soát bệnh viêm phế quản truyền nhiễm. Ở hầu hết các nước, gà con một ngày tuổi được làm vaccine ở chuồng ấp với vaccine virus IB độc lực thấp.
Sau đó, gà được tăng cường miễn dịch bằng chủng virus độc lực cao hơn, thường là pha nước uống. Virus độc lực thấp phù hợp với gà con có mức kháng thể mẹ truyền thấp và không gây phản ứng hô hấp như virus độc lực cao; nhưng nhược điểm là độ bảo hộ thấp chỉ đủ bảo vệ ở đường hô hấp. Có hai loại vaccine, sống nhược độc và vaccine chết bổ trợ nhũ dầu. Vaccine sống thường được sử dụng cho gà trắng, gà ta hoặc làm vaccine cơ sở (lần làm đầu tiên) đối với gà giống, gà đẻ, còn vaccine chết được làm trong thời gian đẻ để duy trì mức bảo hộ. Để vaccine chết đạt hiệu quả tốt nhất nên làm trước đó vaccine sống để “làm nền”. Trong điều kiện tối ưu, vaccine có thể đạt miễn dịch kéo dài nhiều tháng hoặc cả đời.
Vaccine sống:
Vaccine sống được làm nhược độc bằng cách cấy truyền trên môi trường phôi gà. Các chủng đây là một loại vaccine độc lực nhẹ. Nó thường được sử dụng là vaccine đầu tiên trong lịch chủng mà không tạo được miễn dịch lâu dài, ở những vùng có áp lực bệnh cao để tạo miễn dịch cục bộ ở đường hô hấp cao. Đường đưa vaccine có thể là nhỏ mắt, mũi, phun sương hoặc pha nước uống. Những cách đưa vaccine này thường không tốn kém, tạo được cả miễn dịch cục bộ và miễn dịch hệ thống nhưng lại gây một số phản ứng phụ sau khi làm vaccine vài ngày.
Ma5, là một thành phần vaccine đơn, là một chủng nhẹ, cũng được sử dụng là vaccine đầu tiên trong lịch vaccine kết hợp với IB 4/91 và vaccine chết để cho phổ bảo hộ rộng phòng nhiều serotype IB. Vaccine sống thường được sử dụng cho gà giống và gà đẻ (ở giai đoạn gà con) để giữ mức bảo hộ tốt ở cục bộ đường hô hấp và khuyên nên được dùng ở khu vực có áp lực dịch bệnh cao.
Vaccine vô hoạt:
Vaccine vô hoạt tạo miễn dịch kéo dài, không có phản ứng bất lợi sau khi tiêm, và thường tốn nhiều chi phí hơn vaccine sống. Lượng kháng thể lưu hành trong máu được tạo bởi vaccine bất hoạt cao hơn so với vaccine sống vì vậy rất phù hợp cho chương trình vaccine cho gà giống khi lượng kháng thể mẹ truyền qua lòng đỏ trứng là cần thiết. Tuy nhiên, do tạo ra đáp ứng miễn dịch qua tế bào T và kích thích kháng thể tại chỗ (IgA) tốt hơn nên vaccine sống nhược độc vẫn đóng vai trò quan trọng đối với gà đẻ thương phẩm và gà thịt. Gà được làm vaccine cơ sở bằng vaccine sống đúng cách, để khai thác tiềm năng của vaccine chết và bằng cách này, kháng thể cao nhất sẽ đạt được ở khoảng thời gian ít nhất là 4 – 6 tuần (khoảng thời gian giữa lần làm vaccine sống cuối cùng và vaccine chết). Hơn nữa chương trình vaccine có thể được đơn giản hóa bằng cách kết hợp nhiều kháng nguyên bất hoạt phòng hai hoặc nhiều serotype (hoặc hai hoặc nhiều bệnh) trong cùng một vaccine.
Xu hướng vaccine IB trong tương lai:
Với sự phát triển của sinh học phân tử, những vaccine mới như vaccine DNA, vaccine dưới đơn vị và vaccine vector sử dụng gen S1 cùng với vaccine di truyền ngược đã được thử nghiệm ở nhiều phòng thí nghiệm. Vaccine được sản xuất theo công nghệ này có thể được thiết kế phù hợp với các chủng IB đang lưu hành tại địa phương và vấn đề vaccine sống trở lại độc lực có thể được khắc phục. Vaccine tái tổ hợp hoặc vaccine vector cũng được thiết kế để tạo kháng nguyên từ hai hoặc nhiều virus hoạt động như một vaccine đa giá để tạo bảo hộ cho hai hoặc nhiều bệnh. Vaccine DNA cũng là vaccine đầy hứa hẹn như thể hiện ở các thử nghiệm lâm sàng ban đầu.
Những vaccine thế hệ mới này có thể được tiêm trên phôi trứng hoặc gà sống. Về độ bảo hộ cần được kiểm tra ở quy mô lớn trước khi sử dụng với mục đích thương mại.